Với sự du nhập và phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế ngày nay, việc thực hiện quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ là rất cần thiết, đặc biệt là quyền tác giả. Trong pháp luật, chế định về quyền tác giả được được hiểu là tập hợp các quy định cụ thể về việc bảo hộ các sáng tác văn học, nghệ thuật của các tác giả. Hiện nay, pháp luật đã và đang ghi nhận rất nhiều những quyền nhân thân, quyền tài sản nhất định cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm. Bên cạnh đó, để đảm bảo nhất quán và phù hợp, pháp luật cũng đặt ra thêm những quy định về việc giới hạn quyền tác giả. Vậy các vấn đề liên quan đến bảo hộ quyền tác giả hiểu sao cho đúng? Sau đây Công ty Luật Siglaw sẽ làm rõ vấn đề này trong bài viết dưới đây.
Quyền tác giả, quyền liên quan là gì?
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, sửa đổi bổ sung 2022: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”, trong đó, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học đều là đối tượng của quyền tác giả. Ngoài ra, bên cạnh quyền tác giả còn một khái niệm khác là quyền liên quan. Cụ thể tại Khoản 3 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã quy định: “Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”.
Như vậy có thể thấy, tiêu chí quan trọng nhất trong khái niệm của quyền tác giả chính là việc “sáng tạo” hoặc “sở hữu”. Lý giải một cách dễ hiểu rằng có hai trường hợp thì được xem là cá nhân/tổ chức đó có quyền tác giả: Một là, cá nhân đó tự sáng tạo ra tác phẩm bằng đôi tay, trí óc và năng lực của bản thân; Hai là, cá nhân hoặc tổ chức đi thuê/giao nhiệm vụ cho cá nhân/tổ chức khác thực hiện sáng tạo tác phẩm. Đối với trường hợp thứ hai này, cá nhân/tổ chức sẽ được xem là chủ sở hữu, có quyền tác giả đối với tác phẩm nếu như chứng minh được thông qua hợp đồng thuê, hợp đồng/quyết định giao nhiệm vụ.
Thời điểm xác lập bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan
Việc xác định thời điểm được quyền bảo hộ quyền tác giả là vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, điều này sẽ cho tác giả/chủ sở hữu biết được rằng khi nào thì có căn cứ để bảo vệ tác phẩm của mình. Quy định về thời điểm xác lập quyền tác giả được nêu rõ tại Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2022, cụ thể: Căn cứ để phát sinh, xác lập quyền tác giả bắt đầu từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định.
Bên cạnh đó, căn cứ phát sinh sẽ không có bất kỳ tiêu chí phân biệt nào về hình thức, nội dung, chất lượng, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay đăng ký chưa. Như vậy có thể thấy, về cơ bản, quyền tác giả đã được xác lập một cách tự động kể từ thời điểm tác phẩm được sáng tác, được thể hiện dưới một hình thức cụ thể. Điều này là một điểm khác biệt so với nhãn hiệu, bởi nhãn hiệu chỉ được xác lập tự động đối với những nhãn hiệu nổi tiếng, còn đối với những nhãn hiệu thông thường thì phải bắt buộc đăng ký với cơ quan có thẩm quyền.
Về cơ bản, pháp luật sở hữu trí tuệ không bắt buộc tác giả/chủ sở hữu phải đăng ký bảo hộ xác lập quyền tác giả với cơ quan nhà nước giống như các tài sản trí tuệ khác (nhãn hiệu, sáng chế hay kiểu dáng công nghiệp). Sở lý có lý do như vậy là vì yếu tố “sáng tạo” trong các tác phẩm.
Lấy ví dụ, hai hoặc nhiều tác phẩm có nội dung có thể có giống nhau, chủ đề khai thác tương tự nhau, nhưng mỗi tác phẩm lại có những hình thức thể hiện khác nhau, từ đó sẽ tạo nên các tác phẩm khác nhau. Tuy nhiên, ngày nay, việc quyền tác giả bị xâm phạm diễn ra ngày càng nhiều và tinh vi, rất khó để kiểm soát hay chứng minh sự thực rằng ai là tác giả/chủ sở hữu của tác phẩm. Điều này cũng gây khó khăn cho cơ quan nhà nước, trong việc kiểm soát và giải quyết tranh chấp giữa các bên.
Một điều đặc biệt nữa đó là quyền tác giả được áp dụng trên phạm vi toàn thể giới. Đây cũng là điểm khác biệt với nhãn hiệu, vì nhãn hiệu thông thường chỉ được bảo vệ trong phạm vi quốc gia.
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan
Về thời hạn, quyền tác giả cũng có giới hạn bảo hộ nhất định. Theo Công ước quốc tế Berne, đối với các tác phẩm văn học – nghệ thuật, thì quyền tác giả thường có thời hạn tối thiểu là trọn đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời. Trong khoảng thời gian này, tác giả có quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ trong việc khai thác tác phẩm.
Hiện nay, dựa trên tinh thần của các công ước quốc tế, cũng như các quyền khác nhau của tác giả với tác phẩm, pháp luật Việt Nam quy định đối với mỗi quyền pháp luật sẽ có những thời hạn khác nhau. Cụ thể, Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đôi bổ sung 2022 đã nêu rõ:
Thứ nhất, đối với ba quyền nhân thân: (1) quyền đặt tên cho tác phẩm; (2) quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm hoặc được nêu tên thật/bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; (3) quyền được bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm như cấm xuyên tạc, sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới mọi hình thức; thì tác giả sẽ có quyền được bảo hộ vô thời hạn.
Thứ hai, ngoài các quyền trên, thì về cơ bản tác giả sẽ bị giới hạn thời hạn đối với các quyền công bố tác phẩm/cho người khác công bố tác phẩm hoặc các quyền tài sản như làm tác phẩm phái sinh, biểu diễn, sao chép, phân phối, phát sóng, cho thuê bản quyền sẽ có thời hạn nhất định, tùy thuộc vào phân loại tác phẩm:
- Đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh đã được công bố thì thời hạn bảo hộ là 75 năm kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên.
- Đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình.
- Đối với tác phẩm khuyết danh và các tác phẩm khác không thuộc loại hình trên thì thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết tính từ thời điểm các thông tin về tác giả xuất hiện.
Một lưu ý quan trọng nữa đó là, thời điểm chất dứt thời hạn bảo hộ sẽ rơi vào 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.
Hồ sơ & Thủ tục đăng ký quyền tác giả
Thủ tục đăng ký quyền tác giả tương đối đơn giản, chỉ mất khoảng 15 ngày làm việc và bản thân các tác giả hoàn toàn có thể tự tiến hành thủ tục này. Bởi lẽ, dựa trên quy định pháp luật rằng quyền tác giả được bảo hộ tự động nên cơ quan nhà nước cũng sẽ không yêu cầu quá nhiều thủ tục đối với việc đăng ký quyền tác giả này.
Về hồ sơ
Tác giả/chủ sở hữu cần chuẩn bị các giấy tờ sau:
- Tờ khai đăng ký quyền tác giả;
- Hai bản sao tác phẩm đăng ký quyền tác giả;
- Giấy uỷ quyền, nếu người nộp đơn là người được uỷ quyền;
- Tài liệu chứng minh quyền nộp đơn, nếu người nộp đơn thụ hưởng quyền đó của người khác do được thừa kế, chuyển giao;
- Văn bản đồng ý của các đồng tác giả, nếu tác phẩm có đồng tác giả;
- Văn bản đồng ý của các đồng chủ sở hữu, nếu quyền tác giả thuộc sở hữu chung.
Về quy trình
Bước 1: Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có thể nộp trực tiếp hoặc gửi bưu điện hoặc uỷ quyền cho tổ chức, cá nhân khác nộp hồ sơ đăng ký quyền tác giả tại một trong ba địa điểm sau, tùy vào vị trí thuận tiện của tác giả:
- Trụ sở chính của Cục Bản quyền tác giả tại Hà Nội: Số 33 ngõ 294 Kim Mã, Phường Kim Mã, Quận Ba Đình, TP Hà Nội.
- Văn phòng đại diện của Cục Bản quyền tác giả tại thành phố Hồ Chí Minh, địa chỉ: Số 190 đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh.
- Văn phòng đại diện của Cục Bản quyền tác giả tại Đà Nẵng, địa chỉ cụ thể: Số 58 đường Phan Chu Trinh, Quận Hải Châu, TP Đà Nẵng.
Bước 2: Kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Cục Bản quyền tác giả sẽ tiến hành thẩm định và cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả trong thời hạn là 15 ngày làm việc. Nếu thuộc trường hợp bị từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả thì Cục sẽ tiến hành thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn để tiến hành nộp bổ sung.
Ý nghĩa và lợi ích của việc sở hữu quyền tác giả
Hiện nay, nhiều người vẫn chưa hiểu hết được lợi ích của việc bảo hộ quyền tác giả. Thông thường, mọi người đều thường dễ nhầm lẫn hai cụm từ “quyền tác giả” và “quyền sở hữu”. Tác giả của một tác phẩm là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm đó. Còn những người đơn thuần chỉ đóng góp ý tưởng, tìm hiểu thông tin hoặc đưa ra các gợi ý mà không trực tiếp đóng góp vào việc thể hiện tác phẩm thì không được xem là “tác giả”. Thậm chí, ngay cả khi một người có ý tưởng để xây dựng một tác phẩm nghệ thuật nhưng người đó không thể hiện, không tạo ra một tác phẩm trên thực tế thì cũng không được coi là “tác giả”. Trong trường hợp tác phẩm được tạo ra từ nhiều người thi được coi là các đồng tác giả của tác phẩm.
Lấy ví dụ về một vụ tranh chấp tương đối nổi tiếng liên quan đến quyền tác giả với các nhân vật trong bộ truyện tranh “Thần đồng đất Việt” giữa tác giả Lê Linh và Công ty TNHH Truyền thông giáo dục và giải trí Phan Thị. Bà Phan Thị Mỹ Hạnh cho rằng ông Lê Linh vẽ 4 nhân vật nhân vật “Trạng Tí”, “Sửu ẹo”, “Dần béo”, “Cả mẹo” dưới ý tưởng do bà nghĩ ra, nên bà cũng được xem là đồng tác giả của 4 nhân vật trên. Tuy nhiên, ông Lê Linh không đồng ý và khỏi kiện yêu cầu Tòa công nhận ông là tác giả duy nhất của các nhân vật đó. Cuối cùng, phán quyết năm 2019 của Tòa án cuối cùng đã công nhận ông Lê Linh là tác giả duy nhất của bốn nhân vật trên, do bà Linh không hình thức hóa các nhân vật đó trên thực tế và công có căn cứ để chứng minh ý tưởng đó là của mình.
Còn về quyền sở hữu, như đã trình bày ở phần khái niệm, quyền sở hữu phát sinh khi tác phẩm được chuyển giao, ví dụ như thông qua hợp đồng thuê sáng tác, hợp đồng giao nhiệm vụ, hoặc hợp đồng tặng/cho, thừa kế. Như vậy, về bản chất, tác giả sẽ đồng thời có cả quyền tác giả và quyền sở hữu tác phẩm, nhưng chủ sở hữu, do không phải tác giả nên sẽ không có đầy đủ toàn bộ quyền tác giả.
Hiện nay pháp luật quy định, tác giả có 02 quyền cố hữu không thể chuyển giao được, đó là quyền đứng tên trên tác phẩm và quyền bảo vệ sự vẹn toàn của tác phẩm. Do đó, khi xác định được đâu là tác giả, đâu là chủ sở hữu, các chủ thể sẽ biết được mình có những quyền gì và pháp luật quy định quyền của mình như thế nào.
Hiểu được bản chất của việc sở hữu quyền tác giả nêu trên, việc rất cần thiết mà người sáng tạo/ sở hữu tác phẩm cần làm là đăng ký quyền tác giả. Có thể kể đến một số lợi ích tiêu biểu khi đăng ký quyền tác giả như sau:
Thứ nhất, việc đăng ký với cơ quan nhà nước sẽ là cơ sở pháp lý đảm bảo cho người sáng tạo ra tác phẩm được bảo vệ trước những hành vi sử dụng trái phép tác phẩm như sao chép, xuyên tạc, công bố hoặc lạm dụng tác phẩm đó. Tác phẩm tạo ra dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng là mồ hôi, công sức, sự lao động miệt mài bằng trí óc, sự sáng tạo, thời gian và tiền bạc của tác giả. Do đó, việc được cơ quan nhà nước công nhận về mặt pháp luật là điều mà tác giả nên làm. Đó cũng là một phần thưởng, có ý nghĩa động viên tinh thần cho người tạo ra tác phẩm.
Thứ hai, khi đã được nhà nước công nhận quyền tác giả, thì nếu người khác muốn sử dụng, sao chép hoặc yêu cầu khác với tác phẩm thì phải có sự đồng ý của chủ sở hữu. Do đó, giả sử có tranh chấp về quyền tác giả xảy ra, Giấy chứng nhận đăng ký bản quyền tác giả sẽ là một lợi thế để tác giả hoặc chủ sở hữu chứng minh được quyền sở hữu của mình một cách dễ dàng.
Thứ ba, do tài sản sở hữu trí tuệ cũng được xem là một đối tượng dùng để góp vốn, mua cổ phần, nên việc đăng ký bản quyền tác giả cũng sẽ là một lợi ích lớn cho tác giả/chủ sở hữu. Bởi lẽ, tác giả có thể dùng chính quyền tác giả này để góp vốn, mua cổ phần và thu lại lợi nhuận hoặc các quyền khác trong công ty.
Giới hạn quyền tác giả
Mặc dù là tác giả/chủ sở hữu của tác phẩm, tuy nhiên trong một số trường hợp tác giả cũng bị giới hạn quyền với tác phẩm của mình. Về khái niệm, hiểu đơn giản việc giới hạn quyền tác giả đó là trong một số trường hợp, tác phẩm sẽ được sử dụng mà không cần xin phép tác giả, có thể có hoặc không có nhuận bút, thù lao. Về ý nghĩa, những hạn chế về quyền tác giả được đặt ra nhằm phục vụ cho nguyên tắc hài hòa, bình đẳng giữa chủ thể quyền tác giả và lợi ích của công chúng nhằm đáp ứng một số nhu cầu chính đáng ví dụ như giảng dạy hay nghiên cứu khoa học.
Giới hạn quyền tác giả trong trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao, cụ thể:
Trích dẫn tác phẩm
- Đối với trích dẫn để bình luận: cá nhân/tổ chức cần chú ý việc trích dẫn tác phẩm phải đáp ứng điều kiện sau: (1) phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của mình; (2) phần trích dẫn từ tác phẩm được sử dụng để trích dẫn không được làm ảnh hưởng xấu đến quyền tác giả đối với tác phẩm được sử dụng để trích dẫn; (3) việc trích dẫn phải phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn.
- Đối với trích dẫn để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu, giảng dạy trong nhà trường thì chú ý không làm sai ý tác giả
Sao chép tác phẩm
Có hai mục đích chính được phép khi sao chép tác phẩm, đó là:
- Tự sao chép nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân (không mục đích thương mại) hoặc để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu. Luu ý số lượng chỉ được 01 bản.
- Sao chép tác phẩm đây là việc sao chép không quá một bản. Lưu ý, đối với thư viện, khi sao chép thì không được phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số, nếu chưa được tác giả đồng ý.
Các trường hợp khác
Ngoài ra, giới hạn quyền tác giả còn được phép trong một số trường hợp đặc biệt sau:
- Một, biểu diễn tác phẩm trên sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào.
- Hai, cho phép ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy.
- Ba, cho phép chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó.
- Bốn, chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị.
- Năm, nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng: chỉ áp dụng cho trường hợp nhập khẩu không quá một bản.
Lưu ý
Việc sử dụng tác phẩm nêu trên không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.
Việc sử dụng tác phẩm nêu trên không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.
Giới hạn quyền tác giả trong trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao:
- Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng dựa trên thoả thuận của các bên.
- Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ.
Lưu ý:
Việc sử dụng tác phẩm nêu trên không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.
Việc sử dụng tác phẩm nêu trên không áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh.
Tư vấn về hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
Pháp luật đã quy đinh cụ thể các trường hợp xâm phạm đến quyền tác giả, quyền liên quan tại Điều 28 và Điều 35 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2022. Một số hành vi xâm phạm quyền tác giả có thể kể đến như:
- Một, vi phạm đến quyền nhân thân như quyền đặt tên, đứng tên, bút danh trên tác phẩm, quyền công bố tác phẩm hay có hành vi xuyên tạc, sửa đổi, cắt xén tác phẩm.
- Hai, vi phạm đến quyền tài sản của tác giả.
- Vi phạm về sản xuất, phân phối, nhập khẩu, chào bán, bán, quảng bá, quảng cáo, tiếp thị, cho thuê hoặc tàng trữ nhằm mục đích thương mại.
Đối với quyền liên quan, một số hành vi xâm phạm có thể kể đến như:
- Xâm phạm quyền của người biểu diễn.
- Xâm phạm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình.
- Xâm phạm quyền của tổ chức phát sóng.
- Sản xuất, phân phối, nhập khẩu, chào bán, bán, quảng bá, quảng cáo, tiếp thị, cho thuê hoặc tàng trữ nhằm mục đích thương mại các thiết bị, sản phẩm hoặc linh kiện, giới thiệu hoặc cung cấp dịch vụ khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị,
Hiện nay, nếu vi phạm về quyền tác giả, mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân là 250.000.000 đồng, đối với tổ chức là 500.000.000 đồng. Đối với cùng một hành vi vi phạm, khung phạt tiền đối với tổ chức gấp 02 lần khung phạt tiền đối với cá nhân.
Ngoài ra, bên vi phạm còn phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả về pháp luật hành chính và pháp luật sở hữu trí tuệ như:
- Buộc sửa lại đúng tên tác giả, tên tác phẩm, tên người biểu diễn;
- Buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số;
- Buộc hoàn trả cho chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
Với đội ngũ luật sư có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn về sở hữu trí tuệ nói chung, Công ty Luật Siglaw cam kết mang lại cho khách hàng trải nghiệm dịch vụ tư vấn, hỗ trợ pháp lý tốt nhất, giúp khách hàng giải quyết những khó khăn, vướng mắc đang gặp phải.
Trên đây là những vấn đề về “Tư vấn bảo hộ quyền tác giả” mà chúng tôi muốn gửi tới quý khách hàng. Nếu còn vấn đề gì vướng mắc cần giải quyết, hãy liên hệ hotline 0961 366 238 của Công ty Luật Siglaw để được hỗ trợ tư vấn miễn phí, nhanh chóng, hiệu quả.