Tình hình đầu tư FDI ở Việt Nam kể từ giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế thị trường tới quý I/2023

Thời gian qua, Việt Nam đã có 7 năm liên tiếp lọt top 3 quốc gia thu hút vốn đầu tư FDI nhiều nhất khu vực Đông Nam Á. Nhà đầu tư nước ngoài từ lâu đã coi Việt Nam là điểm đến đầu tư hấp dẫn bởi những lợi thế về mặt địa lý, thể chế và môi trường đầu tư ngày càng được hoàn thiện. Bài viết dưới đây sẽ đề cập một cách chi tiết về tình hình đầu tư FDI ở Việt Nam kể từ giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường 1986 và thực trạng hiện nay.

Tình hình đầu tư FDI ở Việt Nam kể từ dấu mốc 1986

Tình hình đầu tư FDI ở Việt Nam kể từ dấu mốc 1986
Tình hình đầu tư FDI ở Việt Nam kể từ dấu mốc 1986

Năm 1986 là một dấu mốc về cải cách kinh tế – thể chế khi đổi mới từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang mô hình nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước, Việt Nam. Kể từ dấu mốc quan trọng này, Việt Nam đã trở thành trở thành một điểm đến tiềm năng của các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) do ổn định về chính trị, nguồn nhân lực dồi dào với giá lao động rẻ.

Năm 1991, số vốn FDI đăng ký vào Việt Nam là hơn 2 tỷ USD, trong đó số vốn FDI thực hiện là 428,5 triệu USD, đạt trên 20% vốn đăng ký. Những năm tiếp theo, lượng vốn FDI vào Việt Nam tăng dần. Đặc biệt là sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, vốn FDI đăng ký vào Việt Nam vọt lên từ 21,35 tỷ USD năm 2007 lên đến 71,73 tỷ USD chỉ riêng năm 2008.

Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 lan ra toàn cầu đã ảnh hưởng nặng nề và nghiêm trọng tới dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam khiến lượng vốn giảm mạnh. Xu hướng sụt giảm này tiếp tục kéo dài cho đến năm 2012 mới có dấu hiệu chững lại. Từ năm 2013 đến năm 2019, vốn FDI vào Việt Nam duy trì được tốc độ tăng đều đặn cả về số dự án đăng ký mới, số vốn đăng ký và số vốn thực hiện hàng năm.

Tác động của đầu tư FDI đến phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam

Tác động đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Thống kê cho thấy, tăng trưởng kinh tế có mối tương quan thuận so với tốc độ tăng thu hút FDI thực hiện hàng năm ở Việt Nam. Cơ cấu khu vực FDI trong GDP có xu hướng tăng dần từ năm 2005 đến nay. Năm 2005, khu vực FDI đóng góp 15,16% trong tăng trưởng GDP. Con số này có xu hướng tăng đều đến năm 2008, giảm nhẹ vào năm 2009 và 2010, sau đó tiếp tục tăng trở lại và đến năm 2019 thì tỷ lệ tăng là 20,35%. Kết quả này cho thấy, khu vực FDI ngày càng có những đóng góp trực tiếp rất quan trọng cho tăng trưởng kinh tế.

FDI cũng giúp đẩy mạnh xuất khẩu, đóng góp vào thặng dư cán cân thương mại của Việt Nam, từ đó thúc đẩy tăng trưởng GDP. Cụ thể, giá trị xuất khẩu hàng hoá của khu vực doanh nghiệp FDI chiếm 27% vào năm 1995 và tăng gấp gần 3 lần lên tới 71,7% trên tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước vào năm 2020.

Mặc dù, nhập khẩu của khu vực FDI đạt gần 169 tỷ USD, chiếm tới 64,3% kim ngạch nhập khẩu của cả nước nhưng tính chung cho năm 2020, khu vực FDI đã xuất siêu 33 tỷ USD không kể dầu thô, giúp bù đắp 15,6 tỷ USD nhập siêu của khu vực doanh nghiệp trong nước (Tổng cục Thống kê, 2020), Từ đó, đảo ngược cán cân thương mại của Việt Nam về kết quả xuất siêu hơn 19 tỷ USD.

Những đóng góp này cho thấy, vai trò quan trọng của FDI trong tăng trưởng của Việt Nam. Tốc độ tăng vốn FDI đăng ký và và thực hiện ở Việt Nam trong những năm gần đây được đánh giá là do Việt Nam đang tích cực hội nhập tham gia nhiều Hiệp định Thương mại tự do – FTA với các quốc gia trong khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, điều này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với nền kinh tế, ví dụ  như có thể dễ bị tổn thương trước các cú sốc từ bên ngoài.

Tình hình đầu tư FDI ở Việt Nam

(Nguồn: Tạp chí Tài chính, Tổng cục Thống kê)

Về tác động của FDI đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, sự tham gia của khu vực FDI trong nhiều ngành, lĩnh vực, đặc biệt là sự tập trung vốn trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và một số ngành công nghiệp khác là nhân tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, góp phần xây dựng môi trường kinh tế năng động và gia tăng năng lực sản xuất các sản phẩm chứa hàm lượng chất xám cao trong nền kinh tế. Trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, FDI góp phần đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu.

Tác động của FDI đến thị trường lao động và vấn đề việc làm

Khu vực FDI có đóng góp không nhỏ trong việc tạo việc làm cho người lao động. Theo Tổng cục Thống kê (2019), kết quả Điều tra Lao động – Việc làm quý I năm 2019, khu vực doanh nghiệp FDI đã và đang tạo công ăn việc làm cho 3,8 triệu người lao động, chiếm hơn 7% trong tổng lực lượng lao động (trên 54 triệu người), chiếm trên 15% trong tổng lao động làm công ăn lương (25,3 triệu người) ở Việt Nam.

Ngoài tạo việc làm trực tiếp cho người lao động, khu vực FDI cũng gián tiếp tạo việc làm trong các ngành công nghiệp phụ trợ hay các doanh nghiệp khác nằm trong chuỗi cung ứng hàng hoá cho các doanh nghiệp FDI.

Mức lương bình quân của những lao động làm việc trong khu vực này cao hơn so với trong khu vực nhà nước hoặc ngoài nhà nước. Cụ thể, theo số liệu từ Tổng cục Thống kê năm 2019, mức lương trung bình của lao động trong khu vực có vốn FDI là 8,2 triệu đồng/tháng, trong đó lao động nam là 9,2 triệu đồng/tháng và lao động nữ là 7,6 triệu đồng/tháng. Trong khi đó, lao động trong khu vực nhà nước có mức lương trung bình là 7,7 triệu đồng/tháng và đối với khu vực ngoài nhà nước là 6,4 triệu đồng/tháng.

Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam dần được nâng cao nhờ hệ thống đào tạo nội bộ trong doanh nghiệp FDI hoặc liên kết với các cơ sở đào tạo ngoài doanh nghiệp. Cụ thể, số liệu điều tra của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội năm 2017 cho biết trên 57% doanh nghiệp FDI thực hiện các chương trình đào tạo cho người lao động. Trong đó, tự đào tạo chiếm 40%, liên kết với các cơ sở đào tạo chiếm 17%. Việc này tạo hiệu ứng tích cực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung ở Việt Nam thông qua việc dịch chuyển lao động từ khu vực FDI sang các khu vực còn lại.

Tình hình đầu tư FDI ở Việt Nam

(Nguồn: Tạp chí Tài chính, Tổng cục Thống kê)

Tác động của FDI trong cải tiến khoa học – công nghệ

Doanh nghiệp FDI đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ của Việt Nam – một kênh quan trọng giúp nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng hơn về kinh tế, xã hội với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Trong một số ngành như: Điện tử, công nghiệp phần mềm, công nghệ sinh học… FDI đặc biệt được kỳ vọng là kênh quan trọng để tiếp thu công nghệ tiên tiến trên thế giới.

Tuy vậy, tác động của FDI vẫn còn rất hạn chế đối với việc cải tiến khoa học – công nghệ. Theo nghiên cứu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, đến đầu năm 2020, chỉ có khoảng 6% doanh nghiệp FDI sử dụng các công nghệ tiên tiến của châu Âu và Hoa Kỳ. Ngược lại, đối với các công nghệ của Trung Quốc lại có tới 30% đến khoảng 45% doanh nghiệp FDI đang sử dụng, tuổi đời của công nghệ là từ năm 2000 đến năm 2005 và phần lớn trong số đó được đánh giá là công nghệ trung bình hoặc trung bình tiên tiến của khu vực. Các công nghệ này đa phần là chưa được cập nhật, do các doanh nghiệp chưa tập trung nhiều nguồn lực cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D).

Tác động của FDI đến môi trường

Với môi trường, khu vực FDI đã tích cực tham gia vào quá trình chuyển giao công nghệ xanh, thực hiện trách nhiệm xã hội đầy đủ, nâng cao nhận thức về nền kinh tế xanh cho người lao động và người tiêu dùng. Những dự án phát triển bảo vệ môi trường của khu vực FDI đã thực hiện tại Việt Nam có thể kể đến như: Dự án hệ thống xử lý nước thải y tế tại Bệnh viện Chợ Rẫy; Công ty Điện lực Phú Mỹ 3 với hệ thống phát hiện rò rỉ tự động và trồng 4.000 cây xanh xung quanh công ty…

Tuy nhiên, một số doanh nghiệp FDI cũng gây ra nhiều sự cố môi trường đáng tiếc do hoạt động xả thải ra môi trường ở Việt Nam. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh được rằng, ô nhiễm môi trường có khả năng “di cư” từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển thông qua kênh FDI. Một nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy, xét theo quy mô thì doanh nghiệp hoạt động ở khu vực FDI lớn thường gây ô nhiễm cho môi trường nhiều nhất so với các doanh nghiệp hoạt động ở các khu vực còn lại.

Tình hình đầu tư FDI ở Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2023 

Thực trạng hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), tính tới ngày 20/03/2023, các dự án ĐTNN ước tính đã giải ngân được khoảng hơn 4,3 tỷ USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm 2022, tăng 2,7 điểm phần trăm so với 02 tháng đầu năm.

Kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN giảm sâu hơn trong 03 tháng đầu năm. Cụ thể, xuất khẩu (kể cả dầu thô) ước đạt gần 60 tỷ USD, giảm 10% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 75,7% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt hơn 59,34 tỷ USD, giảm 10,2% so cùng kỳ năm trước và chiếm 75% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Về mảng nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu của khu vực ĐTNN ước đạt gần 50,47 tỷ USD, giảm 13% so cùng kỳ năm trước và chiếm 66,6% kim ngạch nhập khẩu cả nước.

Nhìn tổng thể, mặc dù kim ngạch xuất khẩu giảm song tính chung trong 03 tháng đầu năm 2023, khu vực ĐTNN vẫn xuất siêu hơn 9,4 tỷ USD kể cả dầu thô và xuất siêu gần 8,9 tỷ USD không kể dầu thô. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp trong nước nhập siêu hơn 6,1 tỷ USD.

Về việc đăng ký đầu tư của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam

Tính đến ngày 20/03/2023, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt gần 5,45 tỷ USD, tương đương 61,2% so với cùng kỳ. Vốn thực hiện của dự án ĐTNN ước đạt khoảng hơn 4,3 tỷ USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm 2022.

Lũy kế đến hết tháng 3, cả nước có gần 36.900 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 444,1 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án ĐTNN ước đạt hơn 278,3 tỷ USD, bằng gần 62,7% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.

Tình hình đầu tư FDI ở Việt Nam
Cơ cấu vốn ĐTNN 03 tháng đầu năm 2023 theo tháng và theo cách thức đầu tư vốn

(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Xét theo ngành nghề đầu tư

Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 17 ngành nghề trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt gần 4 tỷ USD, chiếm 73% tổng vốn đầu tư đăng ký và giảm 25% so với cùng kỳ. Xét về số lượng dự án mới, công nghiệp chế biến chế tạo cũng là ngành dẫn đầu về số dự án mới (chiếm 28,7%) và điều chỉnh vốn (chiếm 65%).

Lũy kế tới 20/03/2023, các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với hơn 264,2 tỷ USD (chiếm 59,5% tổng vốn đầu tư). Tiếp theo là các ngành kinh doanh bất động sản với hơn 66,7 tỷ USD (chiếm 15% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với hơn 38,3 tỷ USD (chiếm 8,6% tổng vốn đầu tư).

Tình hình đầu tư FDI ở Việt Nam
Cơ cấu ĐTNN 03 tháng đầu năm 2023 theo ngành

(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Xét theo đối tác đầu tư:

Có 67 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam trong 03 tháng đầu 2023. Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư gần 1,69 tỷ USD, chiếm gần 31% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, giảm 26,3% so với cùng kỳ 2022; Trung Quốc đứng thứ hai với gần 552 triệu USD, chiếm 10,1% tổng vốn đầu tư, giảm 38,3% so với cùng kỳ. Kế tiếp là Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Hà Lan,… Đặc biệt, Hàn Quốc dẫn đầu cả về số dự án mới (chiếm 15,5%), số lượt điều chỉnh vốn (chiếm 26,9%) và GVMCP (chiếm 28,4%).

Với sự xuất hiện của dự án mới tới từ nhà đầu tư Vanuatu, lũy kế tới hết tháng 3/2023 đã có tổng cộng 143 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký hơn 81,5 tỷ USD (chiếm 18,4% tổng vốn đầu tư). Singapore đứng thứ hai với hơn 72,5 tỷ USD (chiếm 16,3% tổng vốn đầu tư). Tiếp theo lần lượt là Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông.

Tình hình đầu tư FDI ở Việt Nam
Cơ cấu ĐTNN 03 tháng đầu năm 2023 theo đối tác

(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Xét theo địa bàn đầu tư:

Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 44 tỉnh, thành phố trên cả nước trong 03 tháng đầu năm 2023. Trong đó, Bắc Giang dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 1,1 tỷ USD, chiếm gần 20,3% tổng vốn đầu tư đăng ký và tăng gấp 5,2 lần so với cùng kỳ năm 2021. Đồng Nai xếp thứ hai với 18 dự án mới, tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 607 triệu USD, chiếm hơn 11,1% tổng vốn đầu tư cả nước, tăng gấp 3 lần so với cùng kỳ. Tiếp theo lần lượt là Bắc Ninh, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng,… Đặc biệt, TP Hồ Chí Minh vẫn là địa bàn dẫn đầu cả nước cả về số dự án mới (41,4%), số lượt dự án điều chỉnh (15,8%) và GVMCP (66,6%).

Lũy kế tới 20/03/2023, ĐTNN đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP Hồ Chí Minh là địa phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với hơn 56,4 tỷ USD (chiếm 12,7% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Bình Dương với gần 36,7 tỷ USD (chiếm hơn 8,9% tổng vốn đầu tư); Hà Nội với hơn 38,9 tỷ USD (chiếm gần 8,8% tổng vốn đầu tư).

Tình hình đầu tư FDI ở Việt Nam
Cơ cấu ĐTNN 03 tháng đầu năm 2023 theo địa phương

(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Tập đoàn lớn tỏ ra cẩn trọng trong việc đầu tư lớn vào Việt Nam

Do vốn đầu tư mới tuy không còn duy trì được mức tăng mạnh như trong 02 tháng đầu năm, song số dự án đầu tư mới tiếp tục tăng so với cùng kỳ và tăng mạnh so với 02 tháng đầu năm. Bộ KH&ĐT đã đưa ra 02 nguyên nhân chính:

(i) Các nhà ĐTNN quy mô vừa và nhỏ tiếp tục quan tâm, tin tưởng vào môi trường đầu tư của Việt Nam vừa đưa ra các quyết định đầu tư mới; 

(ii) Có dấu hiệu các tập đoàn lớn cẩn trọng, xem xét kỹ việc tiếp tục đầu tư lớn vào Việt Nam trong bối cảnh tác động của chính sách thuế tối thiểu toàn cầu. Các dự án có quy mô vốn đầu tư dưới 1 triệu USD chiếm tới gần 70% số dự án mới, song tổng vốn đầu tư chỉ chiếm gần 2,2% tổng vốn đầu tư đăng ký mới trong 3 tháng.

Các nhà đầu tư đến từ Châu Á, các đối tác đầu tư truyền thống vẫn chiếm tỷ trọng lớn (Singapore, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản). Đặc biệt, đầu tư của các nhà đầu tư Trung Quốc tăng, vượt qua Đài Loan, Hàn Quốc và xếp thứ 2 trong 67 đối tác có đầu tư tại Việt Nam trong 3 tháng, với dự án đầu tư mới lớn (140 triệu USD) trong lĩnh vực sản xuất pin, ắc quy, tấm pin năng lượng mặt trời tại Bắc Giang.

Các dự án đầu tư mới vẫn tập trung vào các tỉnh, thành phố có nhiều lợi thế trong thu hút ĐTNN (cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực ổn định, nỗ lực cải cách thủ tục hành chính và năng động trong công tác xúc tiến đầu tư,…) như Bắc Giang, Đồng Nai, Bắc Ninh, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng,…

Để được tư vấn miễn phí một cách toàn diện về việc đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Quý khách vui lòng liên hệ:

Công ty Luật Siglaw

Trụ sở chính tại Tp. Hà Nội: Số 44/A32 – NV13, Khu A Glexemco, đường Lê Trọng Tấn, An Khánh, Hoài Đức, Tp.Hà Nội.

Hotline: 0961 366 238

Email: vphn@siglaw.com.vn

Chi nhánh tại Tp. Hồ Chí Minh: Khu phức hợp thương mại dịch vụ và nhà ở tại số 16/9 đường Bùi Văn Ba, Phường Tân Thuận Đông, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

Email: vphcm@siglaw.com.vn

5/5 - (4 bình chọn)
Luật sư Lê Dung

Tư vấn chuyên môn bài viết:

Luật sư Lê Dung (Elena)

CEO Công ty luật Siglaw

Luật sư Lê Dung đã có hơn 10 năm kinh nghiệm tư vấn pháp lý cho nhà đầu tư đến từ hơn 10 quốc gia như: Mỹ, Singapore, Canada, Đan Mạch, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc….

Tư vấn miễn phí: 0961 366 238